Để Được Hóa Sanh Từ Hoa Sen
hộ niệm lúc lâm chung
Đại đức Tai Kwong
hộ niệm lúc lâm chung
Đại đức Tai Kwong
1. Hộ niệm là gì?
Thưa quý vị, quí vị có bao giờ nghe từ hộ niệm chưa? Ở đây chúng tôi sẽ nói với quý vị về hộ niệm.
Hộ niệm là mời người đến niệm Phật cầu nguyện cho một bệnh nhân khi nhận thấy thuốc chữa trị không còn tác dụng đối với người ấy nữa, khi mà người bệnh sắp qua đời. Sự nhất tâm của người trợ niệm cùng với công năng của sự niệm Phật sẽ gia hộ cho người bệnh sớm chấm dứt cuộc hành trình cuối cùng trong cuộc đời mình. Nhờ vậy, người bệnh sẽ được tự do, thanh thản và được vãng sanh về cảnh giới của chư Phật. Không có gì hạnh phúc hơn được sống và chết như thế.
Hãy xem ví dụ này. Khi một người đi ra nước ngoài bằng máy bay hay tàu thủy, người thân của người ấy sẽ đến thăm và cầu chúc may mắn đến với anh ta, chúc anh ta có một cuộc hành trình thú vị. hộ niệm cũng tương tự như thế. Chỉ khác là chúng ta thường cầu chúc những điều may mắn đến với cuộc sống của anh ta và mong anh ta sớm trở về sống với chúng ta, còn hộ niệm là nói lời vĩnh biệt với một người hấp hối và trợ niệm cho người ấy được thác sanh vào cảnh giới của chư Phật. Đây là điểm đặc biệt trong đạo Phật và cũng là mục đích của hộ niệm.
Tất cả chúng ta đều biết rằng, mọi người trên thế giới này đều muốn được sống lâu hơn, không ai muốn chết hoặc là sẵn lòng chết. Tuy nhiên, không ai có thể thoát khỏi định luật vô thường. Khi vô thường đến, đời sống của chúng ta sẽ bị thay đổi và chúng ta phải chết. Những ai lo sợ về cái chết cũng sẽ chết và những ai không bận tâm đến sự chết cũng sẽ chết. Đấy là vận mệnh của mọi người. Hơn nữa, sắc thái lúc chết không có gì tốt cả. Đối với mọi người, chết thật sự rất đau khổ. Chết giống như là sự tước đoạt sinh mệnh của người ta vây.
Khổng Tử đã từng nói: “Người nào mà buổi sáng nghe được Đạo, buổi chiều chết cũng thỏa lòng”. Tại sao vậy? Tại vì chết không là gì cả đối với người đã nghe được Đạo. Người ấy thật sự đã vượt lên trên những ý niệm tầm thường lúc anh ta chết. hộ niệm chính là giúp anh ta đạt được điều này. hộ niệm là cầu nguyện chư Phật và chư Phật ở đây là Đạo. Dù cho trong quá khứ anh ta đã làm gì đi nữa cũng không sao. Nếu trước đây anh ta có một chút ít phước thiện và trong lúc lâm chung lại được những người bạn đạo thân thiện đến hộ niệm thì anh ta vẫn có thể vượt thoát khổ đau. Nhờ sự hộ niệm, anh ta nghe được danh hiệu Phật và nhập và chánh đạo nên được vượt thoát khổ đau.
Phút lâm chung là thời điểm nguy kịch nhất đối với một người hấp hối. Đấy cũng là cơ hội cuối cùng để cho người hấp hối có thể chuyển đổi. Cho nên, với tư cách là một người Phật tử, chúng ta phải hộ niệm cho mọi người khi cần thiết.
2. Tại sao chúng ta cần phải hộ niệm?
Chúng ta thường nghĩ rằng, khi một người tắt thở tức là người ấy đã chết. Điều này là không đúng.
Sự thật là trong vòng 8 giờ đồng hồ kể từ khi tắt thở, 8 thức của người ấy vẫn còn tồn tại trong thân thể. Anh ta không phát ra được từ nào cả nhưng anh ta vẫn nhận biết được những gì đang diễn ra xung quanh. Một mặt thì anh ta không nở từ giả cuộc đời này, nhưng một mặt khác thì anh ta hướng vọng về tương lai của mình. Ngay lúc này, nếu được giúp đỡ bởi hành động tốt, được dẫn dắt bởi tiếng niệm Phật thì tâm thức của anh ta sẽ không bị mờ mịt. Lúc ấy, nương theo tiếng niệm Phật, anh ta sẽ được vãng sanh về cảnh giới của chư Phật.
Bạn có bao giờ đến chợ chưa, đã có khi nào bạn thấy những con cá to ở chợ cá chưa? Bạn sẽ thấy chúng bị người bán hàng cắt ra làm nhiều khúc nhỏ ở trên bàn ngay khi chúng còn tươi sống. Những cơ trong các cơ quan nội tạng của chúng sẽ ngừng hoạt động sau vài tiếng đồng hồ. Đuôi của con thằn lằn sau khi bị cắt nó vẫn còn ngọ nguậy một thời gian dài. Thân thể của một người đã bị chém đầu sẽ vẫn còn lật qua lật lại. Một con gà mái vừa bị giết có thể vẫn kêu. Những biểu hiện này chứng tỏ rằng, sự hô hấp đã ngừng nhưng tâm thức của con người vẫn còn. Theo sự diễn tả trong kinh thì sau khoảng 8 giờ đồng hồ, tâm thức sẽ tách khỏi thể xác và sẽ trở thành “thân trung ấm”. Thân trung ấm là một trạng thái tâm thức trung gian giữa sự chết và tái sinh. Trong vòng 7 tuần sau, những người thân của người chết nên tiếp tục niệm Phật trợ duyên, tụng kinh, bái sám và mời những người Phật tử khác cùng hành lễ để trợ duyên cho người chết được siêu thoát.
Ở đây có một vấn đề cần phải được làm sáng tỏ. Khi một người chết, xác thịt của người ấy trở về với cát bụi, nhưng còn phần tâm thức của người ấy thì sao, điều gì sẽ diễn ra với nó, nó có tồn tại mãi mãi không?
Vấn đề này được kinh điển diễn tả rằng, trong vòng bảy tuần sau khi chết, ba loại nghiệp sẽ tham gia quyết định nơi đến của thần thức, nơi mà người ấy tái sinh. Ba loại nghiệp đó là: Trọng nghiệp, tập quán nghiệp và cận tử nghiệp. Trong đó, cận tử nghiệp có sự chi phối mạnh nhất.
Thứ nhất là sự quyết định của trọng nghiệp. Trọng nghiệp là những việc lành lớn hoặc là những việc chẳng lành nghiêm trọng mà người ta đã từng làm lúc còn sống. Kết quả của những nghiệp ấy đã được xác định cụ thể. Người nào gieo những hạt giống thiện thì khi quả chín muồi, họ sẽ được sinh lên thiên giới hoặc thác sanh về cảnh giới của chư Phật. Nếu người nào gieo những hạt giống bất thiện thì kết quả là họ sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ hay súc sanh. “Tất cả những gì người ta đã tạo ra, dù tốt hay xấu, chính họ sẽ là người nhận lãnh những kết quả ấy”.
Thứ hai, con người thường có những thói quen và những sở thích. Người tốt thì có thói quen tốt và ngược lại, người xấu thì có thói quen xấu. Một khi sở thích đã trở thành thói quen thì khó lòng thay đổi được chúng. Khi một người mới chết, nếu không co sự chi phối nào khác thì người ấy sẽ đi theo những người có thói quen tương tự với mình và sẽ tái sinh ở đó.
Thứ ba, cận tử nghiệp thường gắn liền với ý niệm của người hấp hối. Những ý niệm cuối cùng của người chết sẽ quyết định là sẽ tái sinh vào trong sáu cảnh giới của cõi dục hay là được thác sanh về cảnh giới của chư Phật. Ý niệm cuối cùng ấy là rất quan trọng. Nếu người hấp hối không có những trọng nghiệp, cũng không có thói quen và ý niệm cuối cùng cũng không rõ ràng gì cả thì thần thức sẽ bị lấp lững như những làn sóng vô tuyến. Khi người ấy nghe tiếng khóc than của người thân thì sẽ nảy sinh ý niệm là muốn quay trở lại. Nếu lúc ấy mà nghe tiếng niệm Phật thì người đó sẽ dấy khởi ý niệm là không bị vướng bận bởi những âu lo của cuộc đời. Ý niệm muốn quay trở lại là nguyên nhân dẫn đến tái sinh trong sáu cõi hữu tình, trong khi ý niệm không bị ràng buộc bởi những lo âu của trần thế là nhân tố dẫn đến sự thác sanh về cảnh giới của chư Phật.
Có một người Trung Quốc nói rằng: “Khi bạn đánh vào cái chiêng một nghìn lần, thì lần đánh sau cùng sẽ tạo nên âm thanh hòa điệu”.
Hộ niệm là “gõ lần cuối cùng để tạo nên sự hòa điệu”. Có nghĩa là dùng sự hộ niệm để điều chỉnh vào ý niệm của người hấp hối, để khơi gợi và để tác động trực tiếp vào tâm thức của người ấy. Một ý niệm thiện lành thì sẽ đưa đến sự tái sanh ở cõi lành, một ý niệm bất thiện thì bị tái sinh vào ác đạo. Tuy nhiên, người sắp lâm chung cần phải được chăm sóc hết sức cẩn thận trong giờ hấp hối.
Tương đương với chữ “ý niệm” (hay niệm), người Trung Quốc dùng hai chữ Hán để diễn đạt. Chữ thứ nhất có thể tách thành hai chữ khác nữa, và hai chữ ấy có ý nghĩa tương ứng là “hiện tại” và “tâm”. Còn chữ thứ hai có nghĩa là “sự bắt đầu”. Đến những từ ấy lại ta có “sự bắt đầu của niệm hiện tại”. Nên “ý niệm” là đề cập đến sự bắt đầu của tâm trong hiện tại, không phải là tâm trong quá khứ, cũng không phải trong tương lai. Đấy là điểm khởi đầu của niệm hiện tại. Vì thế, khi một người hấp hối bắt đầu khởi một ý niệm, chúng ta phải hộ niệm để gợi mở, để truyền cảm hứng và để dẫn dắt dòng tâm thức của người đó. Đấu là lý do mà chúng ta cần phải hộ niệm.
3. Hộ niệm có lợi ích gì?
Một vài người đã hỏi tôi rằng: hộ niệm có lơi ích gì? Bây giờ tôi sẽ nói với quí vị.
Như quí vị đã biết, có bốn giai đoạn trong đời sống một con người, bốn giai đoạn ấy là: (i) sanh, (ii) già, (iii) bệnh và (iv) chết. Chúng còn được biết đến như là bốn định luật của cuộc sống. Chúng ta hãy bỏ qua ba giai đoạn đầu và chỉ tập trung vào giai đoạn cuối cùng, đó là “chết”. Từ xưa cho đến nay, đã có rất nhiều vị anh hùng, nhưng không có ai trong số họ thoát khỏi sự chết. Tuy nhiên, để chết trong yên bình hay là không thì người ta có thể điều khiển được.
Mọi người đều mong ước có được cuộc sống thú vị và yên bình. Cũng như vậy, mọi người mong ước được bình yên khi chết. Lúc hấp hối, người ta thường rơi vào bốn trạng huống: (i) lo âu về cái chết, (ii) đau đớn, (iii) không muốn dứt bỏ đời sống hiện tại và (iv) không tỉnh táo. Nếu bốn trạng huống ấy không thực sự chi phối đến người chết, nhưng người ấy lại chết trong tiếng than khóc của người thân thì không thể ra đi một cách yên bình được. Tuy nhiên, nếu chúng ta hộ niệm cho người ấy lúc hấp hối thì chúng ta có thể truyền cảm hứng, an ủi, nhắc nhở và dẫn dắt người ấy hướng về chánh đạo. Trong tiếng niệm Phật, người ấy sẽ cảm thấy bớt căng thẳng hơn bởi sự nhớ nghĩ chơn chánh và tự thấy mình không còn bị ràng buộc bởi những lo âu, sợ hãi thường tình. Do đó, người ấy sẽ được tái sinh về cảnh giới của chư Phật một cách an nhiên.
Khổng Tử có nói rằng: “Khi con chim sắp chết, tiếng hót của nó thật não ruột, khi một người sắp chết, họ nói thật thân ái.” Điều này chứng tỏ rằng, không ai muốn chết trong khi anh ta vẫn còn thở. Khi anh ta nhận thấy điều đó không thể có được thì anh ta sẽ mong ước có được một nơi an toàn để báo vào. Nhờ sự hộ niệm, người hấp hối có thể nương vào ánh hào quang của Phật để thoát ra khỏi những âu lo thường tình và tìm đến nương tựa nơi đức Phật. Anh ta sẽ đến được nới an nghỉ cuối cùng, đó là cảnh giới của chư Phật. Đây là một lợi ích của sự hộ niệm.
Bạn thường nghe những bản dự báo thời thời tiết mỗi ngày, những bản dự báo ấy từ đâu mà có? Chúng đến từ máy phát tín hiệu của đài thiên văn. Máy phát tín hiệu ấy truyền những bản dự báo như sóng của vô tuyến. Sau khi điều chỉnh cho phù hợp với tần số quy định của máy phát, trạm phát thanh sẽ nhận những làn sóng vô tuyến ấy và chuyển thành những bản dự báo. Giống như một máy phát sóng, tâm thức của người hấp hối sẽ phát ra những “làn sóng tư tưởng” đến mọi nơi trong vũ trụ. “Làn sóng tư tưởng” nào có những tần số tương thích thì sẽ được báo về và thế là chúng đến với nhau. Cho nên những ý niệm thiện sẽ đến với nhau và những ý niệm bất thiện cũng sẽ đến với nhau. Sự nhóm họp của những ý niệm thiện sẽ tạo ra nghiệp thiện và sự nhóm họp của những ý niệm bất thiện sẽ tạo ra nghiệp bất thiện.
Một lợi ích khác của sự hộ niệm là dùng những “luồng tư tưởng” lành được sinh ra bởi những đạo hữu đang niệm Phật để khai mở ý niệm đầu tiên nhất của người hấp hối. Sau đó làm cho ý niệm lành ấy tiếp tục được điều chỉnh cho hợp với những ý niệm thiện khác trong mười pháp giới. Bằng sự nỗ lực thích đáng, nghiệp thiện ấy sẽ đến được với giới hạn của những hạt giống thiện. Người hấp hối sẽ tập trung vào ý niệm thiện ấy một cách nhất tâm và sẽ được vãng sanh về cảnh giới của chư Phật.
Người ta thường ý thức được rằng, một ý niệm thiện khởi lên là thiên đường hiện khởi và một ý niệm bất thiện khởi lên là địa ngục xuất hiện. Tư tưởng trong hiện tại quyết định cảnh giới tái sanh là thiên đường hay địa ngục. hộ niệm bằng cách niệm Phật là thôi thúc người hấp hối hãy khai mở một ý niệm thiện trong hiện tại và nắm vững lấy nó, chứ không để xảy ra bất cứ một sơ suất nhỏ nào, vì điều ấy sẽ khiến cho anh ta đi lạc đường.
4. Tại sao chúng ta cầu nguyện Phật A-di-đà?
Tại sao chúng ta lại cầu nguyện đức Phật A-di-đà trong lúc hộ niệm? Điều này có lợi ích gì? Tôi sẽ nói cho các bạn hay.
Trước khi Phật A-di-đà đạt đến sự Giác ngộ, Ngài đã phát 48 lời đại nguyện. Trong đó có một lời nguyện rằng “Nếu có chúng sanh nào mong muốn được sanh về Tịnh độ (Cõi Cực lạc của đức Phật A-di-đà), người ấy chỉ cần niệm danh hiệu của tôi một cách chân thành và nhất tâm, ngay cả khi anh ta chỉ mới niệm được 10 lần, anh ta cũng sẽ được tái sinh về Tịnh độ của tôi”. Bởi đức Phật A-di-đà đã phát lời nguyện này nên đạo Phật khuyến khích mọi người niệm Phật để được vãng sanh về cảnh giới của Ngài. Khi người hấp hối mong muốn được vãng sanh về cảnh giới của chư Phật và muốn được các vị hiền thánh đưa tay tiếp dẫn, trong lòng không còn vướng luỵ thì chắc chắn vị ấy sẽ được sanh về Cực Lạc.
Hộ niệm đối với chúng ta, một người bình thường, thì đấy chỉ là âm thanh về danh hiệu đức Phật A-di-đà. Nhưng đối với chư thiên và người cõi âm thì đấy là tia sáng sắc vàng, là hoa sen, là hình tướng của chư Phật. Khi người chết thấy được tia sáng sắc vàng, thấy hoa sen và thấy hình tướng của chư Phật, họ sẽ rất hạnh phúc. Người ấy cảm thấy như mình đang được sanh về cảnh giới của chư Phật. Đấy là lợi ích của việc niệm Nam mô A-di-đà Phật trong lúc hộ niệm.
Tôi xin đưa ra một vài bằng chứng như sau:
Vào những năm 1910, ngài Đế Nhàn là vị Tăng trưởng ở chùa Kuan Tzung, Ngài có một người đệ tử tên là Chih Ch'êng. Chih Ch'êng là một người keo kiệt, qua nhiều năm, anh ta đã dành dụm được một số đồng tiền bằng bạc. Anh ta quý những đồng tiền đến độ đi đâu cũng mang theo bên mình. Chình điều này đã làm cho anh ta loạn tâm trong khi thực tập thiền định. Cho nên anh ta bị bệnh nặng và chết. Hai con ma đã dẫn anh ta đi. Họ bắt anh ta chuyển đống bạc thỏi từ phía trước cung điện ra kho báu ở phía sau. Sau nửa ngày làm việc nặng nhọc, anh ta ngồi xuống để nghỉ ngơi chốc lát. Anh ta cảm thấy vô cùng hối tiếc vì anh ta đã bỏ phí nhiều thời gian lúc đang còn sống. Bởi vì lòng tham nên anh ta đã không luyện tập thiền định một cách chuyên chú để được tỉnh giác. Những đồng bạc mà anh ta đã để dành cũng không ích lợi gì. Sau đó hai con mà trở lại, họ thấy anh ta chưa hoàn thành công việc, họ đã nổi giận và dùng đầu gối đánh anh ta. Anh ta cảm thấy đau và tự nhiên anh ta la lên tiếng 'A-di-đà Phật', bỗng tất cả địa ngục ngập tràn ánh hòa quang vàng chói. Điều này làm cho Diêm vương dật mình. Sau khi hỏi, ông ta được biết là hai con ma ấy đang bỏ bê công việc, và ông ta nhận thấy rằng, Chih Ch'êng quá tham lam nên bị bắt làm việc khổ sai. Vì thế ông ta đã quở trách và cảnh cáo tất cả bọn họ. Sau đó hai con ma đã dẫn Chih Ch'êng trở lại trần thế.
Chuh Ch'êng đã chết nửa ngày và đã tỉnh lại. Anh ta kể lại với mọi người về tất cả những gì mà anh ta đã thấy dưới địa ngục. Anh ta nhận thấy rằng, khổ đau mà anh ta đã phải chịu đựng là do bị phân tâm bởi những đồng bạc. Vì thế anh ta đã sàm hối và phát nguyện từ hôm nay trở đi sẽ chuyên tâm niệm hồng danh chư Phật. Cuối cùng anh ta đã tỉnh thức.
Có một người đồ tể độc ác sống ở phía bắc của sông Yangtsz. Tên của ông ta là Chang. Vào năm 1923, ông ta thình lình ngã bệnh. Ngẫu nhiên có một vị Tăng đi đến vùng đó. Vị Tăng nói với ông Chang rằng: "Ông đã tạo nhiều nghiệp ác, ông sẽ bị tái sanh làm thân con lợn. Vì thế, ông nên sám hối và hãy mau mau niệm Phật". Trong giây lát cuối cùng trước khi chết, ông Chang đưa bàn tay trái lên để chào. Ông ta đã cố gắng niệm A-di-đà Phật bằng đôi môi rồi ra đi. Vị Tăng lại bảo với mọi người rằng: "Bàn tay này hường về chư Phật, nó sẽ không bị biến thành chân lợn. Nhưng thật là tiếc, bởi chỉ có bàn tay này là không bị mà thôi. Và anh ta vẫn không tránh khỏi bị cắt cổ ở đời sau". Cùng lúc ấy, bên nhà hàng xóm có một con lợn con vừa được sinh ra, chân trái của nó trông giống như bàn tay trái của con người. Chân này sẽ không chạm đất khi nó di chuyển. Nó có vẻ như là đang chào mọi người chung quang bằng 'bàn tay' ấy. Sau đó gia đình của người đồ tể đã mua lại con lợn con. Họ đã gởi nó đến chùa Pao Hua ở Changhai và thả nó ở đó. Một vị tăng trong chùa Shanghai tên là Ping-Tzù-Ti đã chụp bức ảnh của nó và đã viết một bài báo về nó. Tôi vẫn luôn giữ bức ảnh ấy bên mình. Điều này cho chúng ta thấy niệm Phật là rất hữu ích.
5. Ý nghĩa của danh hiệu 'A-di-đà Phật' là gì?
Hộ niệm lúc lâm chung, chúng ta niệm A-di-đà Phật, nghi thức chào hỏi trong chùa và ngay trong những lời chúc mừng hằng ngày chúng ta cũng niệm A-di-đà Phật, A-di-đà Phật có nghĩa là gì? Ồ, tôi sẽ giải thích ngay bây giờ.
"Namo amitābha" là tiếng Phạn (Sanskrit). Tiếng Phạn là ngôn ngữ của Phạm Thiên. "Namo" được dịch là quy y, nương tựa, quy kính, hãy giúp đỡ con, hãy cứu lấy con. "Amitābha" có nghĩa là đức Phật ấy sống lâu vô lượng (vô lượng thọ), ánh sáng vô lượng (vô lượng quang). Do đó, "Namo amitābha" có nghĩa là quay về nương tựa đức Phật, đấng Vô lượng quang và Vô lượng thọ; con xin nương tựa Phật, đấng Vô lượng thọ, xin Ngài hãy cứu con; con xin nương tựa Phật, đấng Vô lượng quang, xin Ngài hãy giúp đỡ con.
Ngài Shan Tao đã viết trong "Đại thừa vô lượng thọ trang nghiêm kinh" rằng, Namo là nương tựa và quy kính. "Amitābha" là thực tập theo chánh đạo. Bất cứ ai nương tựa, quy kính và thực tập theo chánh đạo thì sẽ được vãng sanh về cảnh giới của chư Phật.
"Namo" cũng có nghĩa là sám hối. Hãy nhìn những câu Tục ngữ của người Trung Hoa, "Biển khổ không bờ, sám hối là tự cứu lấy mình", "Buông dao đồ tể xuống thì sẽ thành Phật ngay lập tức"
Có một cách nói lóng dành cho những người sống tha hương phải lao động cật lực, đó là: "Chúa không thể tha thứ cho sự trở lại của đứa con hoang tàng"
Thiên chúa giáo và Cơ đốc giáo miêu tả sự chết là "chấm dứt những công việc trần tục và trở về với ngôi nhà của Chúa". Ở đây cũng mang ý nghĩa của sự sám hối.
Theo lời dạy của đức Phật, khi một người hấp hối, hộ niệm là để niệm "Nam mô A-di-đà Phật" xung quang người đang hấp hối. Việc làm này gợi cho người đang hấp hối hay đã chết nhớ lại và rằng, biển khổ là không bờ, sám hối là tự cứu lấy mình. Người hấp hối sẽ nắm lấy cơ hội này để hướng sự chú ý của mình vào nội tâm nhằm nhận ra bản tánh của mình, để trở về với cội nguồn quê hương của mình. Cội nguồn quê hương của chính mình là ở đâu? Đây là bản tánh thanh tịnh của con người. Khi chúng ta nhìn thấy được bản tánh của mình cũng có nghĩa chúng ta thật sự nhìn thấy được Phật tánh của mình. Những ai nhìn thấy Phật tánh của chính mình thì người ấy sẽ được quay về với cảnh giới của chư Phật.
6. Những nguyên tắc khi hộ niệm:
Người bệnh thường bị hành hạ bởi sự đau đớn trước khi chết. Sự đau đớn ấy không thể diễn tả nổi. Vì thế, người bệnh cần có "sự thanh thản" trước và sau khi chết. Người ấy sẽ ra đi hết sức bình yên trong sự thanh thản. Có một số nguyên tắc cần được tôn trọng khi hộ niệm:
(i) Không di chuyển thân thể của người chết.
(ii) Không được khóc than.
(iii) Không nên gây ồn ào không cần thiết.
(iv) Niệm Phật một cách trang nghiêm.
Trước hết là không được di chuyển thân thể của người chết. Từ khi trút hơi thở cuối cùng, người chết cần có sự thanh thản, bất kỳ sự di chuyển nào cũng làm cho thể xác người chết càng đau thêm. Trong lúc đau đớn, người chết sẽ sinh lòng căm hờn. Chính lòng căm hờn này dẫn người chết đến chỗ sa đạo. Việc tắm rửa và thay áo quần cho người chết nên tiến hành trước lúc người ấy chết hoặc là sau khi chết khoảng 8 tiếng đồng hồ. Điều này rất là quan trọng.
Thứ hai, không được khóc than. Mọi người cho rằng, khóc cho người chết là một nghĩa cử thông thường của con người. Một khi có người chết, chúng ta khóc bên xác của người ấy. Điều này chỉ đem đến sự buồn phiền cho người chết mà thôi. Thay vì khóc than, chúng ta hãy ngăn những dòng nước mắt lại và niệm Phật một cách thành kính để cầu cho người ấy được sanh về cõi Cực Lạc. Như thế thì cả người sống và người chết đều sẽ cảm thấy tốt hơn. Nếu ai đó không ngăn được sự khóc than thì nên đi nơi khác và khóc cho thỏa lòng rồi hãy trở lại. Như thế thì sẽ làm dịu bớt sự dồn nén ở trong lòng.
Thứ ba là không nên gây ồn ào không cần thiết. Khi có người chết, thân quyến và bạn bè sẽ đến viếng. Trong lúc ấy sẽ có không ít vấn đề được những người đến thăm bàn tán ngay sau khi anh ta chết. Khi có quá nhiều quan điểm và có quá nhiều lời huyên thuyên không ngớt thì chỉ làm mất đi sự yên tĩnh và làm phân tâm những người hộ niệm mà thôi. Tốt hơn là nên thảo luận và sắp xếp công việc ở một phòng khác hoặc là ở bên ngoài. Hãy giữ cho căn phòng mà người chết đang nằm được yên tĩnh. Mọi người hãy niệm Phật trong sự điềm tĩnh và hãy để cho người chết chỉ nghe tiếng niệm Phật mà thôi. Được như thế thì người chết sẽ có thể nhất tâm và dòng tư tưởng thanh cao của anh ta không bị gián đoạn. Đây mới là cách trợ giúp phù hợp nhất.
Thứ tư là niệm Phật một cách trang nghiêm. Tất cả những người Phật tử hay không phải Phật tử, sau khi hiểu được lợi ích của sự hộ niệm, họ thường mời những người giúp đỡ (ở Đài Loan và Hồng Kông có thành lập những hội mà hội viên thường đến giúp đỡ và hộ niệm cho người hấp hối, như ở nước ta có các đạo tràng vậy - lời người dịch) đến để chuẩn bị cho việc hộ niệm. Cần phải quan sát sự chuyển biến của người hấp hối, khi thấy người thân của mình đang nằm, vẫn còn thở, sắp tắt thở, đang trút hơi thở cuối cùng, lúc ấy hãy mời mọi người hộ niệm cho anh ta. Mọi người nên cùng nhau niệm Phật trong sự trang nghiêm để cầu cho người đang nằm được vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A-di-đà.
Có ba cách niệm Phật (hộ niệm lúc người hấp hối):
(i) Dùng máy với băng niệm Phật. Chỉ cần nhấn nút kích hoạt cho máy phát âm mà thôi.
(ii) Vừa dùng máy phát âm vừa có người hộ niệm niệm Phật.
(iii) Chỉ có người hộ niệm niệm Phật mà thôi, không có máy phát âm.
Có một vài điểm cần lưu tâm trong khi gia đình có người hấp hối:
(i) Số lượng người giúp đỡ không nên quá nhiều.
(ii) Khi đã có đủ số người giúp đỡ, họ có thể luân phiên nhau hộ niệm để họ không bị đuối sức.
(iii) Tránh sử dụng những thiết bị máy móc trong lúc hộ niệm mà nó có thể tạo ra những âm thanh chói tai. Nếu phải dùng đến thì chúng ta nên mở nhỏ và để xa người đang nằm.
(iv) Không cần thiết phải thắp hương, nhưng nếu có một bó hoa thì rất tốt.
(v) Không được làm phiền đến những người bệnh gần đấy. Hãy nhớ lấy điều này! (Đây là trường hợp đến hộ niệm trong nhà thương).
(vi) Chỉ di chuyển thân thể người chết sau 8 giờ kể từ lúc tắt thở. Điều này sẽ hơi bất tiện nếu đấy là khu vực có quá nhiều bệnh nhân. Chúng ta có thể chuyển nguyên cả cái giường mà người chết đang nằm đến phòng khâm liệm và tiếp tục hộ niệm cho đến tám tiếng đồng hồ. Sau đó chúng ta có thể chuẩn bị cho việc khâm liệm.
(vii) Nếu người chết đang trong tư thế ngồi, cứ để vậy và không cần phải phủ khăn áo gì cả. uy nhiên, chúng ta không được để cho nó nghiêng. Và sau 8 tiếng thì chúng ta sẽ chuyển đổi.
(vii) Không cần phải mặc áo quần tốt cho người chết, chỉ cần phủ lên thân thể của họ một tấm ra sạch là được rồi. Cuối cùng thì thể xác ấy cũng được mai táng hoặc là hỏa thiêu, cho nên việc mặc quần áo tốt cho họ cũng không có lợi ích gì. Nếu như đem những áo quần tốt đó cho người thân của mình dùng lúc đang còn sống thì tốt hơn, nó sẽ làm tăng thêm phần giá trị cho người ấy.
(ix) Sau 8 đến 12 tiếng, chúng ta vẫn tiếp tục sắp xếp cho tang lễ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể tiếp tục hộ niệm.
Với sự phát triển của kỹ thuật công nghệ, việc hộ niệm bằng máy với băng niệm Phật có vẻ tiện lợi hơn. Tuy nhiên, nếu được người hộ niệm thì việc hộ niệm sẽ tốt hơn. Nên có ít nhất là một hoặc hai người để hộ niệm cùng với máy niệm Phật và cũng là để canh chừng việc trở băng khi băng hết. Trong lúc trở băng, không nên để phát ra tiếng động lớn.
Tại vùng Sandakan ở Malaysia có một người đàn ông bị ám ảnh bởi ma quái. Những người bạn tốt của anh ta đã mở máy niệm Phật để xua những ma quái đó đi. Lúc đầu, nhiều người hộ niệm cùng với máy niệm Phật, con ma thấy hào quang sắc vàng và sắc tướng của chư Phật nên nó đã bỏ chạy. Người đàn ông ấy nhờ vậy mà được tỉnh táo.
Sau đó những người hộ niệm lần lượt đi về. Mặc dù máy vẫn đang niệm Phật nhưng con mà đã trở lại và lại quấy rầy anh ta. Qua đây cho chúng ta thấy rằng, nếu được hộ niệm bởi con người thì sẽ tốt hơn là chỉ dùng máy.
7. Làm gì khi "nhạc đã cất lên mà người vẫn chưa đi"?
Có một câu châm ngôn rằng: "Tiếng nhạc cất lên và người thanh thản ra đi". Niệm Phật thật ra là hát "bản nhạc vô sanh". Sau khi nhạc cất lên thì người hấp hối nên từ giã cõi trần. Tuy nhiên, đôi khi sự việc lại không diễn tiến như vậy. Tiếng niệm Phật cất lên mà người vẫn chưa ra đi, người ấy vẫn còn sống. Lúc ấy chúng ta nên làm gì? Trường hợp này giống như là sau khi chúng ta niệm Phật trợ tiến cho người hấp hối nhưng người ấy không chết, anh ta vẫn tiếp tục sống thêm 10 năm nữa. Chúng ta nên làm gì trong trường như thế?
Trả lời: Đấy là kết quả tốt, là một trường hợp đáng mừng, là một điềm lành. Bởi vì công năng của việc hộ niệm đã làm hồi sinh. Như thế không tốt hơn sao? Nhờ phước đức của việc hộ niệm mà mạng sống của người hấp hối được kéo dài ra. Như thế thì tốt hơn chứ? Nhờ phước đức của việc hộ niệm mà người hấp hối đã thoát khỏi bệnh tật, như thế không tốt hơn sao?
Bây giờ tôi sẽ nêu thêm ví dụ để quý vị thấy.
Ngài Thái Hư đã chết một ngày một đêm lúc ngài 17 tuổi. Ngài đã phát nguyện trì tụng kinh im cang bát nhã ba là mật, nhờ vậy mà Ngài được hồi sinh. Từ năm Ngài 60 tuổi cho đến 85 tuổi, tôi (tác giả) đã bốn lần hộ niệm cho Ngài, cầu cho Ngài được thác sanh về cảnh giới chư Phật, lúc ấy tưởng như Ngài đã ra đi vì bệnh nặng. Nhờ công năng niệm Phật mà Ngài đã được thoát khỏi bệnh tật và sống cho đến 89 tuổi.
Thật là sai lầm khi nghĩ rằng, niệm danh hiệu A-di-đà Phật là chỉ dùng khi có người chết. Thật là bất hạnh cho người sống. Chúng ta hãy nhìn xem, trong mỗi ngôi chùa, mỗi tu viện, nhiều nghi thức thường nhật của họ đều có niệm Phật. Khi những vị Tăng hay Phật tử gặp nhau, họ cũng chào nhau bằng câu niệm Phật. Niệm danh hiệu A-di-đà không chỉ là để vượt qua những điều bất hạnh trong cuộc sống mà còn là để tích đức cho mọi người. Khi một người đi xa, anh ta phải chuẩn bị hành trang cho chuyến đi của mình. Để đến được cảnh giới của chư Phật thì niệm Phật là Tư lương của chúng ta. Điều này được biết đến như là "tư lương Cực lạc". Nếu một người có thể niệm vài ngàn, vài triệu danh hiệu đức Phật, thì đấy sẽ là vốn liếng cho cuộc hành trình đến với cảnh giới chư Phật của anh ta. Thật là một điều đáng mừng khi tích lũy được “tư lương Cực Lạc”.
Hồng Kông là một đô thị đa tôn giáo. Cho nên, trường hợp trong gia đình có cha mẹ là những Phật tử trong khi con cái của họ lại là những tín đồ của Thiên Chúa giáo hoặc là của Cơ Đốc giáo không phải là ít. Vì sự bất đồng tôn giáo mà những bậc phụ huynh lo ngại rằng, sau khi họ chết, con cái của họ sẽ không tổ chức theo những nghi thức cần thiết trong đạo Phật. Nên họ đến chùa đặt sẵn “tấm thẻ hoa sen” cho chính họ, gắn hình và viết tên của họ vào đó. Khi họ còn sống, tấm thẻ ấy sẽ được bao bọc bởi một miếng giấy đỏ và được đánh dấu “Trường thọ”. Lúc mọi người trong chùa niệm Phật A-di-đà mỗi ngày thì họ, những người cha người mẹ, sẽ được gieo những hạt giống thiện và đang tạo dựng những nhân lành để trở thành Phật. Họ sẽ nhận được những công đức từ sự cầu nguyện ấy. Điều này không có gì là chẳng lành cả.
Nên nhớ rằng, niệm Phật là điều đáng khích lệ. Nó cho phép mọi người tích lũy những nghiệp lành, trưởng dưỡng bồ đề tâm, nuôi lớn hạt giống thiện. Không có ai trong cõi đời này lại đi than phiền vì có quá nhiều công đức, càng có nhiều công đức thì càng tốt. Càng niệm Phật A-di-đà thi niềm vui càng thêm lớn. Vì thế, họ sẽ biết trước giờ chết và họ sẽ chết một cách nhẹ nhàng, không bệnh tật cũng không đau đớn, họ sẽ được hóa sanh trong hoa sen ở cảnh giới của Phật. Đấy là điều may mắn và diễm phúc. Theo trong kinh, ngay khi một người nguyện sanh về thế giới Cực Lạc và bắt đầu niệm Phật A-di-đà thì ở thế giới Cực Lạc có một hoa sen cũng bắt đầu lớn dần. Người đó càng niệm Phật thì hoa sen càng lớn thêm. Trong kinh Đại thừa vô lượng thọ trang nghiêm có một chi tiết chỉ ra rằng, hoa sen trong ao lớn như bánh xe, đấy là sự thật.
Năm 1964, tôi đã đi Ấn Độ với tư cách là một người hành hương, tôi đã nhận ra rằng, đường kính của hoa sen ở đó rộng 4 feet, những cái lá của nó cũng lớn hơn thế. Nói chung là nó lớn hơn nhiều so với bánh xe mà chúng ta thấy ở đây.
Nếu một người niệm Phật và cùng lúc người đó nguyện sanh về Cực Lạc, khi họ gần chết, hoa sen ở thế giới Cực lạc sẽ bắt đầu nở hoa. Khi người hấp hối thở hơi thở cuối cùng trong tiếng niệm Phật thì ngay lập tức thần thức của họ được thác sanh về Cực Lạc. Có người thắc mắc rằng: “Con người có tâm thức còn cây cối không có tâm thức. Vậy thì làm sao cây có thể chuyển hóa thành một chúng sanh có tâm thức được?”
Đáp rằng, không hề gì. Hãy nhìn vào những cây gỗ xung quanh ta, chúng là một loài thực vật và chúng có thể chuyển hóa thành những giống côn trùng. Cho đến đất đai, sông ngòi, biển cả, tất cả chúng đều có thể cho ra đời những giống côn trùng. Những con chim cú xem những hòn đá như là con cái của chúng. Một vài con chim cú được nở ra từ những hòn đá. Những con rồng lửa, quái vật phun lửa và những con ma đói, tất cả chúng đều luôn sống trong lửa, thế mà chúng vẫn tồn tại được. Từ chỗ trống rỗng, không có thứ gì vẫn có thể sinh ra nhiều loài sinh vật. “Cỏ côn trùng mùa đông” là một loại côn trùng sống vào mùa đông, nó sống dưới mắt đất, nhưng đến mùa hè thì chúng lại chuyển thành một loại cỏ và phát triển ở trên mặt đất. Đấy là một giống sinh vật vừa là thực vật vừa là côn trùng. Một vài khi thì nó là một giống cây cỏ nhưng một lúc khác thì nó là côn trùng. Ở trong đại dương, có nhiều loài sinh vật vừa là thực vật vừa là động vật. Vào thời đức Phật, có một cây Àmra ở Ấn Độ, trái của cây này đã sinh ra một người con gái. Còn có nhiều ví dụ khác giống như thế nữa.
Một phôi thai trần tục được hình thành do sự kết hợp giữa tinh dịch của người cha và trứng của người mẹ, sau đó một mầm sống mới được sinh ra từ trong tử cung của người mẹ. Chúng ta cho đấy là một sự ra đời không thanh khiết. Nếu một người niệm Phật với lời nguyện chí thành và tư tưởng trong sạch một cách liên tục, bằng tất cả những công đức đã tích lũy được như thế thì người ấy sẽ được vãng sanh về Cực Lạc, được hóa sinh từ trong hoa sen. Đấy là một thánh thai. Tất cả những điều ấy đều do đức Phật nói, cho nên chắn chắn đấy là chân thật. Hãy xem những câu thơ diễn tả về cõi Cực Lạc:
“Mỗi hoa sen có một thánh thai, một hoa sen sẽ sinh ra một người niệm Phật, đồng thời một chuỗi hạt bằng đá quý tương xứng nhất cũng được hiện ra, tất cả những nhu cầu thiết yếu sẽ được đáp ứng ngay khi vừa nghĩ đến.
Nguyện được sanh về cõi Cực Lạc
Chín phẩm hoa sen là cha mẹ
Hoa nở thấy Phật chứng “vô sanh”
Bất thối Bồ tát là bạn lành”
Đoạn kệ sau thì tất cả Phật tử đều biết. Phật tử thường tụng câu kệ này để hối hướng công đức cho người khác.
8. Để được hóa sanh từ hoa sen:
Khi mối liên hệ với trần thế của một người chấm dứt, người đời gọi đấy là chết. Trong đạo Phật, xem đấy như là “tái sanh”. Chết có nghĩa là người ấy tiêu tan, không còn tồn tại nữa. Tái sanh có một vài điểm khác biệt, tái sanh không tương đương với chết, nó có nghĩa là chuyển từ nơi này đến nơi khác.
Ví dụ như đi từ Komloon đến Hồng Kông, đi từ Hồng Kông đến Đài Loan, đến Canton. Điều này diễn tả sự thay đổi về vị trí, thay đổi địa chỉ. Đấy là sự di chuyển từ ngôi nhà cũ đến một ngôi nhà mới.
Không đồng ý sao? Thân thể chúng ta được biết đến như là “một cái võ cật chất”. Khi một ngôi nhà được sử dụng lâu năm, nó sẽ bị cũ và bị hư hoại, lúc ấy người chủ nhà sẽ làm lại ngôi nhà.
“Để được hóa sanh từ hoa sen” là đi từ có trần thế nhơ bẩn này đến thế giới Cực Lạc. Đây chính là chuyển đến một thế giới mới, một “ngôi nhà” mới vậy.
Hộ niệm để cầu cho ai đó được thác sanh về thế giới Cực Lạc là giúp người hấp hối chuyền từ ngôi nhà cũ đến ngôi nhà mới. Đây là điều không đáng buồn, mà là điều đáng vui mừng.
Buồn phiền là tầm thường, vui mừng mới là thánh thiện.
Người ta thường chấp than thể và tên gọi là “tôi”. Điều này là sai. Chính than thể này cũng hông phải là “tôi”. Nó là “của tôi”, nó chỉ là phương tiện của con người. Bản tánh thanh tịnh của một người là “chân ngã” của người ấy. Tất cả những phương tiện và những thứ được sử dụng bởi “chân ngã” sẽ dần hao mòn hoặc là tiêu tan hết. Rồi chúng phải được thay thế. hộ niệm để cầu cho ai đó được thác sanh về thế giới Cực Lạc là giúp họ được tái sanh từ hoa sen và thay đổi thể xác của người ấy bởi một thể xác mới.
Những điều kiện để được vãng sanh về thế gới Cực Lạc không có gì phức tạp. Điều đó phụ thuộc vào sự chăm chỉ niệm Phật mỗi ngày của một người, sự nỗ lực hộ niệm lúc lâm chung và nguyện lực của Phật A-di-đà. Không nghi ngờ gì cả, khi ba điều kiện này đã hội đủ thì nhất định người ấy sẽ được vãng sanh về Cực Lạc.
Có một Đại đức Tăng được đưa đến bệnh viện Phật giáo, sau một vài ngày, Đại đức biết rằng, mối liên hệ của mình với trần thế này sẽ chấm dứt sớm. Đại đức đã bảo với người thân của mình là phải hộ niệm cho Đại đức. Đại đức đã có một kiến thức thật sự uyên thâm và ý thức đạo đức, nên đại đức có thể gạt bỏ tất cả những chuyện tầm thường. Như một kết quả, trong khi hộ niệm, đại đức vẫn tỉnh táo, hướng ánh sáng vào trong nội tâm mình và ngộ được vô sanh. Trong lúc sắp chết, Đại đức đã để lại cho chúng tôi một bài kệ như sau:
“Không chấp vào vật chất,
Không chấp vào hư không,
Quê hương sẽ hiển hiện.
Phật Di Đà hợp nhất
Với chân tâm làm một,
Chân tâm ta hợp nhất
Với ánh sáng vô biên.”
Sau khi nói lên bài kệ này, Đại đức nhắm mắt và ra đi thanh thản.
Khi một người chết xem như là một sự kiện đáng buồn. Tuy nhiên, cái chết của vị Tăng trong trường hợp ấy đã đem đến cho những người thân còn sống một tình cảm quý mến, một niềm hân hoan, và lòng kính phục. Tất cả chúng ta đều biết rằng, không sớm thì muốn, cái chết sẽ đến với mình. Vì thế, “ra đi” một cách thanh thản thì tốt hơn là ra đi một cách đau khổ.
Thưa quý vị, bây giờ quý vị nên đồng ý rằng, đây là vấn đề cấp thiết nhất có liên hến đến chính quí vị. Mong rằng niềm hạnh phúc sẽ đến với tất cả quý vị và xin quý vị hãy bảo trọng.
Bài văn này ngay từ đầu đã được nêu ra nhan đề là hộ niệm lúc lâm chung. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn còn lo rằng, những bệnh nhân sẽ có một cảm giác không dễ chịu nếu họ thấy một nhan đề như thế. Nên chúng tôi đã đổi thành nhan đề “để được hóa sanh từ hoa sen” lúc in ấn. Nhan đề này tương tự như một lời khuyên ở trong kinh điển. Chúng tôi phải nghĩ ra một cách để thu hút sự chú ý của mọi người để chúng ta có thể truyền bá giáo lý của đấng Giác ngộ. Chúng ta thành tâm cầu nguyện cho tất cả những ai được hộ niệm sẽ được giải thoát hoàn toàn, sẽ được tái sanh từ hoa sen và sẽ được vào Niết bàn.
- Minh Nguyên dịch -
- Minh Nguyên dịch -
0 nhận xét:
Đăng nhận xét